Tình thế cấp thiết là gì? Ví dụ về tình thế cấp thiết?
1. Tình thế cấp thiết là gì?
Theo khoản 1 Điều 23 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
Như vậy, theo đó tình thế cấp thiết là tình thế của cá nhân, tổ chức vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Ví dụ. Một buổi sáng, anh Nguyễn Văn Hùng lái xe khách chở 30 hành khách từ thành phố Lào Cai về Sa Pa. Khi xe đang xuống dốc một đoạn đèo quanh co và dốc đứng, hệ thống phanh của xe bất ngờ bị hỏng, bàn đạp phanh không ăn. Anh Hùng nhanh chóng kiểm tra và nhận thấy xe đang lao nhanh xuống dốc, phía trước cách khoảng 200 mét là một khu chợ đông người. Nếu xe tiếp tục chạy thẳng, chắc chắn sẽ lao vào đám đông, gây hậu quả nghiêm trọng về tính mạng và tài sản của nhiều người. Trong tình huống cực kỳ nguy hiểm đó, anh Hùng quyết định đánh lái mạnh sang phải, hướng xe tông vào cổng sắt và tường bao của một nhà dân ven đường, khiến cổng bị hư hỏng nặng, ước tính thiệt hại khoảng 50 triệu đồng. Xe bị móp đầu nhưng tất cả hành khách đều an toàn, không ai bị thương. Sau khi sự việc xảy ra, chủ nhà có yêu cầu anh Hùng bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này, hành vi gây thiệt hại cho tài sản của chính mình được coi là tình thế cấp thiết để bảo vệ tính mạng của nhiều người, do không còn cách nào khác.
2. Điều kiện bắt buộc phải có để áp dụng tình thế cấp thiết
Để được coi là hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết và được miễn trách nhiệm hình sự, cần có đủ ba điều kiện cốt lõi sau đây:
– Phải có sự nguy hiểm thực tế đang đe dọa
Đây là điều kiện tiên quyết để xác định có “tình thế cấp thiết” hay không. Nguy hiểm ở đây là nguy cơ hiện hữu, cụ thể và có thật, đang đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân hoặc của chính người thực hiện hành vi. Nguy hiểm có thể đến từ thiên nhiên (cháy, lũ, động đất…) hoặc do con người, máy móc, động vật gây ra (như xe mất phanh, nổ khí gas, thú dữ tấn công…). Điều quan trọng là tình huống nguy hiểm phải đang xảy ra hoặc sắp xảy ra ngay lập tức, đòi hỏi phải hành động tức thời để ngăn chặn hậu quả.
– Gây thiệt hại là biện pháp duy nhất để ngăn ngừa
Điều kiện này yêu cầu người hành động trong tình thế cấp thiết không còn lựa chọn hợp lý nào khác để tránh thiệt hại. Nếu còn có biện pháp khác ít gây hại hơn mà người đó vẫn không áp dụng, thì không được coi là hành vi trong tình thế cấp thiết. Điều này thể hiện yêu cầu về tính cần thiết và hợp lý của hành động, tránh việc lợi dụng danh nghĩa “tình thế cấp thiết” để gây thiệt hại tùy tiện.
– Thiệt hại gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa
Đây là điều kiện quan trọng nhất và có tính quyết định để được miễn trách nhiệm hình sự. Người thực hiện hành vi chỉ được coi là hành động trong tình thế cấp thiết khi thiệt hại họ gây ra nhỏ hơn thiệt hại mà họ ngăn chặn được. Việc so sánh phải dựa trên mức độ nghiêm trọng, tính chất và giá trị của các lợi ích bị xâm phạm và lợi ích được bảo vệ. Trong đó, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe con người luôn được coi là nghiêm trọng hơn thiệt hại về tài sản.
3. Vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết
Theo Khoản 2 Điều 23 Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
Đây là trường hợp chủ thể có cơ sở để được hành động trong tình thế cấp thiết nhưng đã vượt quá phạm vi cho phép. Theo khoản 1 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì người hành động trong tình thế cấp thiết chỉ được phép gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Điều đó có nghĩa khi thiệt hại gây ra không nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa thì không còn là trường hợp tình thế cấp thiết. Tuy nhiên, do sự so sánh hai loại thiệt hại trong tình thế cấp thiết là vấn đề không đơn giản, dễ dàng và điều này càng khó khăn hơn đối với người đang đứng trước sự đe dọa gây thiệt hại mà phải lựa chọn biện pháp ngăn chặn sự đe dọa đó. Do vậy, luật hình sự Việt Nam chỉ coi việc gây thiệt hại là không hợp pháp khi thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu… và chủ thể có lỗi đổi với việc vượt quá đó. Trường hợp này tuy phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng được giảm nhẹ vì tính chất của động cơ và vì hoàn cảnh phạm tội. Thể hiện điều này, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
